Hoa Uyên Tử (Tặng người đàn ông với chiếc xe đạp không xích)
Hoa Uyên Tử
Vân Phi
(Tặng
người đàn ông với chiếc xe đạp không xích)
***
Thực ra, Tèo Lết không phải tên thật của nó. Ngày
nó được sinh ra bên núi An Mư đúng mùa hoa tiểu uyên tử nở tím cả cánh rừng
già. Họ đặt tên nó là Uyên Tử. Nó phổng phao, đôi mắt tròn đen như hạt cườm màu
ngọc bích. Nhưng từ khi lên tám tuổi, chả hiểu sao đôi chân nó teo lại, mềm oặt.
Cơn đau hành hạ từng ngày, nó khóc nhiều đến mức mắt bị mù. Vợ chồng ông Năm
đau xót khi thấy con mình như vậy. Tất nhiên, ông Năm biết nguyên nhân vì sao
thằng con trai duy nhất của mình ra nông nỗi như thế…
Ông Năm từng là lính Việt Nam cộng hòa. Nhưng bản
tính chơn chất, chưa bao giờ có ý nghĩ sẽ phương hại ai cả. Chiến tranh đã khiến
con người ta không còn là mình nữa, những con người bình thường bỗng trở nên
quyết liệt đến đáng sợ. Giữa lằn ranh sống chết, tiếng súng nổ không khoan nhượng.
Ông Năm sợ hãi những âm thanh đoành đoành, những tiếng nổ của đạn pháo rung trời
kia. Sợ những cú chạm mặt nhau giữa những người từng là đồng hương uống chung
dòng nước, giờ lại ở hai bên chiến tuyến chĩa lưỡi hái tử thần về nhau để một mất
một còn. Tất thảy những điều đó ám ảnh ông Năm trong từng hơi thở, mỗi khi ông
nhắm mắt là cơn ác mộng về tiếng súng, lửa, máu lại ùa về xâm lấn...
Một ngày nọ, ông đội mưa gió trốn khỏi cánh rừng A
Bảo trong tiếng súng nổ chát chúa giữa hai bên chiến tuyến để tìm về với người
vợ hiền nơi miền quê yêu dấu. Trên đùi máu chảy bê bết bởi vết đạn chẳng biết của
phía nào. Giờ nghĩ lại những ngày tháng cũ, đôi lúc ông nghĩ, giá mà ngày ấy chết
luôn thì hay. Chết dưới viên đạn của những người bên kia chiến tuyến hay chết
trong bom rơi đạn lạc, hoặc nhắm mắt rút chốt lựu đạn là xong. Nếu vậy thì chẳng
có ngày hôm nay, chẳng phải thấy đứa con của mình đau đớn oặt ẹo như vậy khi bị
lây nhiễm thứ chất độc nguy hại hủy hoại từng thế hệ. “Uyên Tử à. Ba xin lỗi.
Có lẽ con không nên đến thế giới này để rồi gánh chịu tất cả những điều đó”, nhìn
đôi chân nhũn nhặn của con, nghĩ đến những tháng ngày qua thằng bé im bặt không
khóc cũng không nói lời nào, ông Năm cầm quả lựu đạn trên tay run run, nước mắt
lăn dài trên gò má đen sạm. “Khốn nạn thật! Tại sao?”, ông Năm cười điên dại.
Tiếng nổ vang trời bứng luôn gốc cây bời lời bốn tháng tuổi bên mé rừng, rung
chuyển cả ngôi nhà mái lá xập xệ. Uyên Tử có lẽ vẫn đang ngủ. Cũng chẳng biết
được nó đang ngủ hay thức. Nó vẫn im lặng. Đôi mắt nhắm nghiền. Hơi thở vẫn đều
đều, chỉ có thân thể là gầy quéo như một xác ướp, thỉnh thoảng khẽ rung lên một
chút.
Uyên Tử ghét ba nó. Có lẽ vậy. Nó tránh né mọi lời
hỏi han ân cần và sự chăm sóc chân thành của chú Năm. Mẹ nó chết khi nó vừa lên
9 tuổi, mất cùng đứa em đang tượng hình gần 4 tháng tuổi khi bà bị dòng thác cuốn
đi theo cơn lũ nghịch mùa. Nó nhớ đôi bàn tay ấm áp của mẹ hay áp vào má nó,
xoa trán nó và cả tiếng khóc thút thít của bà dưới bếp trong căn nhà hai gian.
Nó nghe hết.
Uyên Tử vẫn hay gồng đôi tay lết ra con suối mà mẹ
nó bị cuốn đi để ngồi một mình. Nó tựa lưng vào gốc bời lời già, hái một chiếc
lá và thổi. Âm thanh rít lên thống thiết như con chim rừng bị cứa cổ hòa vào tiếng
suối gào riết thê lương. Âm thanh nhẹ dần rồi dìu dặt buồn hun hút, nghe như ai
oán, nghe như chênh vênh. Trong mắt nó rỉ ra thứ nước đặc sánh. Như máu. Chẳng
phải nước mắt…
Người ta vẫn thấy Uyên Tử lết đi đến cuối xóm Hẻo
dưới chân đồi An Mư mỗi khi ba nó lên rẫy. Nó không muốn ở nhà, nó không muốn nằm
trên chiếc giường bện tre và chiếc chiếu cói bằng dây đay sần sùi vẫn còn hơi ấm
của mẹ. Những thứ đó làm nó nhớ. Nhưng cũng làm nó sợ. Nó sợ điều gì cũng chẳng
rõ. Có lẽ, nó sợ những hồi ức ấm áp và thực tại mục ruỗng đầy cay nghiệt. Vậy
là, thay vì lầm lì đối diện, nó tìm cách trốn tránh.
Khi nó lên 15 tuổi. Ba nó bán hết đất rẫy và căn
nhà vách nứa với giá rẻ mạt chuyển về thành phố An Khương sống. Ông Năm tìm được
công việc trong một nhà máy giấy. Hai cha con ở nhà của một người quen. Hình
như là một người bạn chí thân sống chết từ thuở còn chiến tranh của ông Năm đã
chuyển lên Sài Gòn không ở đó nữa. Ngôi nhà cũng chẳng khá hơn ngôi nhà trước của
thằng Tèo là mấy. Tường gạch nhiều chỗ nứt nẻ. Có đoạn bị thủng một lỗ rõ to.
Xung quanh là những ngôi nhà cũng bằng vai phải lứa như thế. Chúng nằm lởm chởm
xiêu vẹo dọc theo một con hẻm nhỏ, lọt thỏm giữa phố. Xung quanh xóm nhà lá ấy
là những nhà cao tầng với giàn tigôn và hoa tulip xinh đẹp. Dân tình ở thế giới
văn minh xung quanh xem những người trong con hẻm này là những quái thai kì dị
của xã hội. Họ đặt nó với cái tên mạt sát: Hẻm Chó Mửa.
Đã nhiều năm nay, đây là nơi trú ngụ của bao thân
phận nghèo rách rưới và đói khổ. Từ những tay sống bằng nghề xăm vẽ, trổ những
nét rồng phượng cho lũ choai choai học đòi mới lớn đến gã nhà thơ tóc dài chấm
lưng nửa tháng chưa chịu tắm hay ngồi thẩn thơ đọc những câu cực vớ vẩn như trời
hành. Rồi cả những tay chạy xe ôm mặt mày nhếch nhác, thuốc lá phì phèo, ăn nói
bỗ bã, sẵn sàng văng tục chí mạng khác hẳn với văn hóa học đường dạ thưa. “Nậu
cha mày, có chịu ăn không tao cho cái bạt tai chết mẹ bây giờ”, “Đù mạ thằng Tí
đâu, hôm nay sao mầy không đi học để cô giáo gọi tao mắng dốn tơi tả”. Vừa nói các ông bố vừa xách roi dí con chạy tán loạn cả
xóm nhà lá. Đó là những âm thanh mà thằng Tèo Lết từ khi chuyển đến sống nơi
đây đã quen thuộc. Nó im lặng và lắng nghe. Thế thôi. Có những điều nó không thấy
nhưng “nhìn” được, giống như một nhà hiền triết nào đó đã từng nói, kẻ mù có
đôi mắt của trái tim… Quả thật, ít ai để ý rằng, đằng sau những câu nói nghe như
chát chúa và bị xem là lũ thất học vô văn hóa kia là những tấm lòng yêu thương được
ngụy trang bằng sự xù xì thô ráp của lớp ngôn ngữ bụi đường.
Họ lao ra cuộc sống bên ngoài vất vả, sẵn sàng chịu
đựng sự phỉ nhổ và coi khinh của những người tự cho mình có đẳng cấp thượng lưu
để kiếm miếng cơm cho vợ con. Họ cũng lao động miệt mài bằng đôi bàn tay nhưng
chẳng bao giờ khấm khá được. Thế mà, cũng từ cái hẻm phố Chó Mửa này, một tay nọ
đỗ đạc rồi ra làm quan xã một nơi nào đó. Chẳng mấy chốc đã có nhà lầu. Cũng từ
độ đó, tay ấy biến hẳn khỏi những bộ mặt rách rưới quen thuộc. Tiệt nhiên không
bao giờ quay lại.
Thời chiến tranh, nghe đến đi lính, làm quan là sợ
xanh mật, nhưng giờ thời thế đã thay đổi, có khi đi buôn còn lâu giàu hơn làm
quan. Bởi thế nên nhiều người có khổ cực trăm bề cũng ráng cho con học hành
thành tài đặng sau này có cơ hội đổi đời, thăng quan tiến chức thì càng tốt.
Trong xóm có tay Hai Ròm, người nhỏ thó, bị bệnh gai cột sống vẫn từng ngày đạp
xe ra Cảng cá Uy Hòa để làm bốc vác kiếm mấy đồng lẻ nuôi bà vợ bị bệnh động
kinh và hai đứa con ăn học. Con Hai Ròm, thằng lớn đã mười sáu tuổi, một buổi
đi học, một buổi đi đánh giày, đứa con gái bị tan máu bẩm sinh mỗi tháng phải
thay máu một lần để duy trì sự sống nhưng chăm ngoan và học rất khá. Nỗi bận
tâm về sự học dành phần nhiều cho thằng con trai. Nó tên Tám. Nó ốm chỏng chơ
như thằng nghiện xì ke thiếu thuốc. Nó học hành cũng dạng thường. Hai Ròm mỗi
khi vác cây roi tre giáo huấn chuyện học hành thì nó khự nự: “Nhà mình chẳng tiền
chẳng thế. Học chỉ thêm tốn cơm tốn gạo hả ba. Giờ ra xã hội không tiền thì
trăm đường khó. Ba không thấy chú Nam (là “tay nọ” đã bái bai mãi mãi cái hẻm Chó Mửa) ngày trước à, phải bán nhà, chạy
chọt mãi mới được…”. Hai Ròm nghe thì càng thêm tức. Cho nó đi học ai dè giờ nó
lý sự lại. Định vụt roi đánh cho nó nhớ đời nhưng chợt nghĩ lại, thằng Tám ương
bướng cố chấp, càng đánh thì nó lại càng lì như trâu, lại càng giống chú Hai
khi còn trẻ. Hai Ròm miệng mếu xệch: “Bố lạy mày con à. Phải học để sau này
thoát ra khỏi cảnh này. Đời bố mày đã khổ vì dốt, vì không biết con chữ là gì rồi…”.
Thấy bố van lì, thằng Tám gật đầu ừ dạ, nhưng khả
năng có hạn, không phải cứ muốn là được. Thằng Tám lanh lợi, nhưng toàn lanh
chuyện đời, chuyện người, còn cộng trừ nhân chia, nguyên lí, phản ứng, nó chịu
thua, chưa chiến đấu đã buông súng đầu hàng.
Từ ngày gia đình thằng Tèo Lết chuyển về hẻm Chó Mửa.
Thằng Tám thấy thằng Tèo hơi ghê ghê không dám đến gần. Cứ chiều chiều Tèo lại
lết ra đầu ngõ, tựa vào gốc trụ điện im lặng. Thằng Tám đi đánh giày về nhiều lần
đi qua nhưng không một lời chào người hàng xóm mới. Chỉ đi qua. Lặng lẽ.
Rồi một hôm như mọi hôm, chỉ khác là hôm ấy thằng
Tám bị một thằng khách mất dạy bộp tai vì bảo nó đánh giày mà làm xước đôi giày
da mới mua. Thằng Tám vừa đi vừa chửi lầm bầm trong miệng: “Có 5 nghìn mà cũng
bày trò quỵt người khác. Khốn nạn hết cỡ. Đúng là chó cắn áo rách”. Nói đoạn nó
nhổ toẹt một bãi nước bọt bên vệ đường. Khốn nạn thay, nó nhổ trúng ngay cái đầu
thằng Tèo Lết đang ngồi thù lù như một đống rác nhếch nhác ở đó. Thằng Tám hoảng
hồn, im lặng một chút rồi nói lắp bắp: “Đù mạ mầy hết chỗ ngồi hả thằng kia.
Tao không để ý… Tao… Tao không cố ý. Só
ri nha”. Thằng Tèo đột nhiên lên tiếng: “Só ri là cái đếch gì?”. “Ơ, mày cũng biết nói à. Thế mà tao tưởng…”.
Thế rồi từ đó, hai thằng chơi với nhau. Dần dần thằng Tám cũng không còn thấy
thằng Tèo ghê ghê nữa. Khuôn mặt nó dễ thương mà. Sống mũi cao, trắng trèo, đôi
lông mày rậm, đôi mắt tròn xoe hạt cườm…
“Bác Ba biết bốc thuốc ổng xem đôi mắt mầy có chữa
được không cu”. Thằng Tèo gằng giọng: “Chữa thế nào được. Ngày xưa ông già tao
mang tao tới trạm y tế xã, họ bảo hết phương cứu chữa rồi”. Thằng Tám ra vẻ trải
đời: “Chỉ có thằng ngu mới cả tin như mầy. Chắc gì mấy ổng phán đúng”. Nói rồi
thằng Tám cười khì khì: “Thử đi, bác Ba thương tao lắm, tao hay mát xa, nhổ tóc
sâu cho ổng. Để tao nói bác giúp mầy. Không lấy tiền đâu mà lo”. “Được. Nhưng đừng
nói chuyện này cho ông già tao biết”. “Ô cơ. Chuyện nhỏ”.
Vậy là hằng ngày, khi ông Năm ra ngoài đi làm trong
nhà máy giấy, thằng Tám lại chạy sang cõng thằng Tèo Lết qua nhà bác Ba. Nghe bảo
là đắp thứ thuốc kì hoa dị thảo gì đó đen quánh như cứt chó, lại có mùi hôi rất
khó chịu. Tèo cảm nhận rõ đôi mắt mình ấm nóng dần đều rồi chuyển sang mát lạnh,
tê tê. Không biết có bớt hay không nhưng thứ thuốc quái dị kia vừa làm khó chịu
cái mũi, lại khoan khoái trong hốc não.
***
“Tao còn không biết giờ bên ngoài tô bún nó giá bao
nhiêu mầy ạ. Lo chạy cơm từng ngày, tiền nhà thuê, tiền viện cho con bé Lan
cũng méo mặt rồi”, trong một lần tâm sự với Tèo Lết, thằng Tám thổ lộ. Thằng
Tèo giở trong túi ra 50 ngàn bảo: “Hôm nay tao mời. Xài hết chỗ này thôi”. Sau
một hồi phân vân thì thằng Tám gật đầu: “Ô cơ! Chơi luôn”. Nói rồi thằng Tám bế
thằng Tèo lên chiếc xe đạp, chở vèo ra tận ngõ 6 Ngô Tang. Vào quán Hai Giêng:
“Chủ quán cho hai tô bún”. “Hai đứa ăn bún gì?” “Bún là bún chứ còn bún gì?”.
Bà chủ quán cười: “Có bún gân, bún bò, bún giò. Ăn bún nào?”. “Cái nào đắt nhất?”.
“Bún bò với bún giò đồng giá 5 ngàn. Bún gân 3 ngàn”. “Thế cho 2 tô bún gân”.
Nói rồi thằng Tám lại cười khì khì.
Hai thằng quất xong tô bún mà phơi phới dạ. Thằng
Tám quẹt mũi: “Được rồi, hôm nay tao làm được 2 khách, mời mày cà phê. Hồi giờ
tao cũng chưa uống cà phê, nghe bảo uống cà phê phê hơn uống rượu”. Thế là hai
đứa dẫn nhau ra quán cà phê gần ấy…
Thằng Tám đang nói linh tinh về cách uống cà phê, cảm
nhận cuộc sống như một nhà hiền triết nửa mùa thì bỗng dưng khựng lại. Nó khẽ
lay lay đôi chân nhũn nhặn như cánh tay em bé của thằng Tèo: “Chú Năm kìa. Chú
Năm bảo làm trong công ty giấy mà sao giờ lại chở gánh ve chai. Nhìn thương
quá! Ba mầy kìa Tèo ơi”. Thằng Tèo mặt đỏ bừng. Nó kéo một cái rơi chiếc băng vải
hờ màu đen trên mắt mà bác Ba vừa đắp thuốc khi nãy. Nó cố mở mắt. Trong cái
hun hút tối đen, có một thứ ánh sáng lờ nhờ òa vào mắt nó như sự xâm nhập của
ánh sáng vũ trụ vào cánh cửa thiên đường. Cánh cửa mở ra những chân trời ánh
sáng, vô vàng ánh sáng, vồ vập và chói lóa. Nó cảm thấy rát buốt, nhoi nhói. Nó
nhắm mắt. Mở mắt. Rồi vội vàng nhắm lại. Một lần nữa, nó cố gắng mở ra. Những lờ
nhờ dần rõ nét…
Trong tim nó như òa vỡ một cảm xúc rối loạn. Là ba
nó. Ngay trước tầm mắt nó phía bên kia đường. Người đàn ông chân bước khập khiễn
đang dắt chiếc xe chất đầy ve chai đi cà nhắc từng bước, liêu xiêu chiếc bóng gầy
còm. Đôi tay ba nó giữ chặt chiếc xe đạp không xích đã cũ mòn, nó nhận ra là
chiếc xe ngày xưa còn bé mẹ hay chở nó ra ngoài trung tâm huyện mua những cây
tò he trong rằm tháng tám. Hóa ra, bao lâu hay ba đi nhặt ve chai để nuôi nó. 50
ngàn kia không biết ba nó đã dành dụm bao lâu để có được mà đưa nó giữ, nhưng
nó không tiếc mà tiêu xài cho ra dáng anh hào với thằng bạn.
Nó ghét ba nó mà. Tại sao ba nó lại đưa nó đến thế
giới này. Để suốt bao năm qua là những chuỗi ngày địa ngục. “Sao ngày ấy ba
không cùng con đi đến một thế giới khác. Có lẽ con sẽ không tủi thân và thấy
mình thừa mứa trong cõi đời này. Ba cũng không cần phải vì con mà chịu bao tủi
khổ như vậy”. Nó lại nhớ đến những lần ba nó ngồi một mình rít thuốc, mùi thuốc
lá làm nó khó chịu cho dù ông ở cách nó gần mươi mét. Nó ho sặc sụa. Từ độ đó,
nó chẳng bao giờ còn nghe mùi thuốc lá từ ba nó nữa.
Đôi mắt nó chợt ươn ướt, có gì đó không kiểm soát cứ
trỗi dậy từ trong lòng. Rối bời. Dội ngược. Nó khóc. Sau bao năm, những giọt nước
long lanh lại trổ mầm từ đôi mắt rất đẹp của nó, nguyên vẹn những đơn sơ, ngay
khi nó trở lại với ánh sáng. Nó nhoài người lao xuống chiếc ghế. Ngày xưa cũng
vì một lần té ngã mà nó mất luôn một chiếc răng cửa. Nhưng lần này chẳng sao,
thằng Tám đã nhanh tay đỡ nó. Nó hất bàn tay xương xẩu của thằng Tám ra, cất tiếng
gọi run run, cái giọng như con chim non trầm vỡ giữa hoang hoải núi rừng: “Ba
ơi, con đây. Ba ơi, con của ba đây. Con thấy ba rồi ba ơi”.
Ông Năm buông chiếc xe đạp ngã xuống lòng đường, lết
chiếc chân cà nhắc về phía con trai. Họ tiến gần đến nhau hơn trước ánh mắt của
bao người. Tất cả đều im lặng. Mọi thứ như ngưng bặt chỉ còn có hai cha con.
Cơn gió thoảng nhẹ đưa mùi cà phê tan loãng trong mê miên ánh sáng. Hôm ấy, trời
nắng đẹp, những giọt nắng đậu trên mái phố, trên lá cây non, trên lòng bàn tay,
xuyên thấm, ấm dịu rồi hóa thành những sợi tơ mỏng manh tỏa hai bên đường ngợp
một sắc tím huyền ảo xinh đẹp của hoa bằng lăng, tựa hệt như mùa hoa tiểu uyên
tử trên núi An Mư thuở trước…
...
Truyện đăng ở báo Quảng Ninh: http://baoquangninh.com.vn/van-hoa/tac-gia-tac-pham/201611/sang-tac-moi-hoa-uyen-tu-truyen-ngan-cua-van-phi-2322117/
0 nhận xét:
Đăng nhận xét