123, Example Street, City 123@abc.com 123-456-7890 lasantha.wam

hạnh phúc trổ mầm từ phía cô đơn...

Thứ Năm, 16 tháng 4, 2020

Sắc ấm mỹ thuật Bình Định

Năm 2019 đã khép lại. Nhìn lại chặng đường một năm những nghệ sĩ Bình Ðịnh hoạt động mảng mỹ thuật có vui, có tiếc nuối, nhưng đọng lại vẫn là cái tình chia sẻ, ấm lòng với bao hy vọng.

Các họa sĩ chụp ảnh lưu niệm nhân buổi gặp mặt Kỷ niệm 68 năm Ngày truyền thống Mỹ thuật Việt Nam.
Năm 2019, nhiều họa sĩ Bình Định đã thể hiện được dấu ấn của mình qua những tác phẩm đã công bố. Có thể kể đến một Lê Trọng Nghĩa với tác phẩm Mắc kẹt bằng chất liệu gỗ + sắt đạt giải khuyến khích Triển lãm khu vực Nam miền Trung - Tây Nguyên và giải A Giải thưởng Mỹ thuật Bình Định. Và lần nữa anh lại khẳng định năng lực sáng tạo của mình khi được mời tham dự Triển lãm & Workshop Mỹ thuật Quốc tế Hanoi Art Connecting 2019 do Đại học Mỹ thuật Công nghiệp và nhóm Asia Art Link tổ chức tại Hà Nội. Hay một Nguyễn Văn Cần với tác phẩm Nắng qua vùng lũ (chất liệu acrylic) được chọn tham dự Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc đề tài lực lượng vũ trang tại TP Hồ Chí Minh.
Nhà điêu khắc Lê Trọng Nghĩa chia sẻ, năm 2019 là năm khá thành công của Chi hội Mỹ thuật Bình Định. Số lượng tác phẩm được chọn tham gia triển lãm khu vực nhiều hơn năm 2018. Có họa sĩ đã đạt giải thưởng khu vực. Ngoài ra, có nhiều họa sĩ tham gia nhiều hoạt động triển lãm ở TP Hồ Chí Minh, Quảng Nam, Hà Nội, Phú Yên…, tổ chức giao lưu chuyên môn với các đoàn họa sĩ các tỉnh bạn. Đặc biệt là có 2 họa sĩ được kết nạp Hội Mỹ thuật Việt Nam là Lê Thị Tuấn và Nguyễn Thế Trường.
Nhà thơ, họa sĩ Lê Ân giới thiệu một tác phẩm của bạn bè được anh trân trọng treo tại tư gia.
Những ngày cuối năm, gặp lại chị Lê Thị Tuấn, một họa sĩ miệt mài sáng tạo, đã mạnh dạn chuyển hướng từ chất liệu sơn dầu sang tranh khắc gỗ. Điều ấy đồng nghĩa với dấn thân vào sự nhọc nhằn để tìm tới cái đẹp. Năm vừa rồi, chị cũng là một trong số những họa sĩ Bình Định đã gửi tranh tham gia đấu giá từ thiện do Hội đồng hương Bình Định tại TP Hồ Chí Minh tổ chức. Bức Xưởng đóng tàu là một tác phẩm tranh khắc gỗ mà chị tâm đắc, dành nhiều thời gian thực hiện đã được đón nhận nồng nhiệt. Với chị, giản đơn là tấm lòng muốn chia sẻ phần nào với những phận người có hoàn cảnh khó khăn hơn mình. Khi tôi chúc mừng chị là hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam, chị đôn hậu trải lòng: “Thật sự mình rất vui, bởi quá trình sáng tác không ngừng của mình đã được ghi nhận. Điều đó như tiếp thêm năng lượng để mình tiếp tục với hoạt động sáng tác, nâng cao chất lượng tác phẩm của mình hơn nữa”.
Có lẽ, nữ họa sĩ Lê Thị Tuấn là một trong số ít những họa sĩ còn giữ nhịp độ sáng tác đều đặn hiện nay ở Bình Định. Giữ lửa sáng tác là điều được nhiều họa sĩ và người yêu mỹ thuật Bình Định quan tâm. Anh Lê Trọng Nghĩa tâm tư, mỹ thuật Bình Định dường như vẫn còn là một vùng trũng, các họa sĩ ít sáng tác, cũng không có nhà trưng bày, triển lãm mỹ thuật thường xuyên... thiếu rất nhiều thứ. 
Nhiều lần chuyện trò với họa sĩ Nguyễn Văn Cần, anh trải lòng: Ở mình dường như yếu tố kết nối giữa các họa sĩ còn lỏng lẻo. Việc các họa sĩ ngồi lại cùng nhau, hăm hở chia sẻ cho nhau những sáng tác mới, trao đổi và góp ý nhau những tác phẩm, truyền lửa cho nhau… còn thiếu vắng. Nguyễn Văn Cần là một trong số ít những họa sĩ ở Bình Định bán được kha khá tranh. Anh tâm sự: “Những năm gần đây thị trường tranh Bình Định có hướng phát triển. Tranh có phần đa dạng hơn. Nhiều người bắt đầu mua tranh. Như năm vừa rồi là mình bán được 2 bức khổ lớn trong loạt Phố nhớ và kha khá nhiều tranh khổ vừa...”.
Giữa tháng 12.2019, các họa sĩ Bình Định ngồi lại với nhau như thông lệ thường niên. Tôi như hăm hở vui lây khi tinh thần đoàn kết của mỹ thuật Bình Định lần nữa được hâm nóng khi nhiều họa sĩ chốt hạ sẽ tổ chức một cuộc triển lãm nhóm các tác giả trong năm 2020. Ở đó, công chúng yêu mỹ thuật sẽ được thưởng lãm các tác phẩm tâm đắc của các họa sĩ, nhà điêu khắc. Ở đó, sự kết nối của các họa sĩ trong tỉnh được thắt chặt ấm nồng...     
VÂN PHI


Văn Trọng Hùng & miệt mài trầm tích...


Nhà thơ, kịch tác gia Văn Trọng Hùng.
Sinh thời, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Liễn có viết tặng nhà thơ, kịch tác gia Văn Trọng Hùng câu đối: “Hảo dã Văn Trọng Hùng, muộn nhi thi, nộ nhi kịch/Truy tùy cổ nhân chí, tiến tận chức, thoái tận tâm” (tạm dịch: Khá lắm, Văn Trọng Hùng! Buồn thì làm thơ, giận thì viết kịch/Noi theo cái chí của người xưa, tiến thì làm trọn chức trách, về thì giữ vẹn chữ tâm”. Ðấy là lúc Văn Trọng Hùng còn đương chức, nay ông đã về hưu được mấy năm nhưng lời khen của Vũ tiên sinh nghe vẫn đúng.
Mới rồi, Văn Trọng Hùng cho ra mắt tập thơ Ngửa mặt hỏi trăm năm (NXB Hội nhà văn, 2019). Cả kịch và thơ, Văn Trọng Hùng đều tạo được những dấu ấn riêng, nhưng tôi, tôi tìm thấy ở thơ ông rất nhiều đồng cảm.
Văn Trọng Hùng viết đều và miệt mài nhưng năm, bảy năm, có khi tròm trèm chục năm, ông mới tuyển in. Như một sự trầm tích những tháng năm sống với bao lằng lặng cảm xúc. Những Bóng trúc (2001), Đối ảnh (2006), Hầu chuyện tiền nhân (2012) làm đầy đặn thêm gia tài thơ của ông. Và giờ đây, là Ngửa mặt hỏi trăm năm (2019). Vẫn nét kiêu bạc, cái tình ăm ắp đầy, nỗi trở trăn thế sự.
Bàng bạc trong Ngửa mặt hỏi trăm năm là rất nhiều những câu hỏi. Là băn khoăn với bao nỗi đời. Là tự vấn lòng mình. Là soi chiếu vào nhân tình thế thái, phản biện trong nhiều lĩnh vực xã hội, lịch sử. Có những câu hỏi ngắn - mảnh -
bén như xoáy, như len lỏi vào đến tận lõi của vấn đề. Dù là hỏi trăm năm trước hay muôn ngày sau, đâu mới là cái nét trượng phu, nhân nghĩa giữa những vai diễn trong tiểu thuyết võ hiệp, lẫn cuộc đời. Đâu mới là tình hữu hảo thực sự khi con người bị nhúng vào cái bẫy danh lợi phù hoa? Đâu mới thật là bằng hữu khi Hàn Tín thù tạc với Hạng Vũ? Biết cách đặt câu hỏi tức là đã khai mở cách tiếp cận câu trả lời. Và hỏi theo cách của Văn Trọng Hùng là ẩn chứa trong đó rất nhiều câu trả lời khiến người đọc có thể tự mình kiến giải: “Chỉ có điều nay hơi lạ/ đạo hay mệnh trời/ ông chẳng nói một lời/ và bỗng mất võ công trước những Nhạc Bất Quần hữu hảo?” (Hỏi Kim Dung). Hoặc “Ở Côn Sơn đêm ấy vẫn lặng yên/ Nguyễn Trãi chong đèn đọc sách/Về khuya mưa như trút nước/Lê Lợi đến thăm/Nguyễn Trãi đã đi nằm” (Đêm ấy ở Côn Sơn). Nhiều bài thơ bật lên nét tài hoa bằng cái kết bất ngờ và giàu sự chiêm nghiệm. Có những câu thơ, tác giả đau đáu nỗi niềm quê hương: “thời gian sẽ mòn những vật chứng/ thời gian biển lại trong xanh/ Nhưng/ những vết nhơ của láng giềng hữu nghị kia/ thời gian/ xóa mãi/ không thành” (Thời gian).
.
Lạnh, rắn, đó là với kẻ xu nịnh quyền thế không lo vận nước, không đoái hoài con dân, chính nghĩa. Nhưng cũng có một Văn Trọng Hùng khác, ấm nồng những yêu thương trong những câu thơ về bằng hữu, về người thân và mênh mang những tình thi vừa kín đáo vừa dào dạt niềm yêu. Ví như, với đấng sinh thành, có những bùi ngùi của một hài nhi tóc bạc trong niềm ngoái vọng: “Tóc con giờ đã sương pha/ Hư danh một bóng mây qua giữa trời/ Ước gì còn mẹ mẹ ơi/ Con xin che hết khoảng trời nắng mưa” (Mẹ).
Trong thơ, bóng dáng các nhân vật từng xuất hiện trong kịch Văn Trọng Hùng cũng hiện hữu dưới sự soi chiếu của ngôn ngữ thơ. Trong thơ có kịch, trong kịch có thơ. Là ông tự nhận vậy. Nhưng ông rành rõ phân định giữa thơ và kịch. Có lần ông chia sẻ, viết kịch cần một trường lực bền bỉ hơn thơ. Nhưng nói vậy, không có nghĩa là làm thơ dễ dàng. Nếu như nó không làm mình thực sự rung cảm. Ông xem tứ thơ là căn cốt của một bài thơ. Cũng như ông xem yếu tố lịch sử là cái “đinh” để treo lên đó những ý tưởng sáng tạo khi viết kịch lịch sử. Nhưng rõ ràng, giữa thơ và kịch, có một sự đan cài nhất định, bổ trợ nhau. Trong bài Gặp Võ Tánh ở thành Hoàng Đế rút từ tập Hầu chuyện tiền nhân, ông viết: “Một đời ta vì trăm họ, giang san/ Dẫu khác chúa nhưng không khác lòng yêu dân yêu nước/ Mà thôi, trải năm tháng những gì mất, được/ Mặc đời sau, công tội luận bàn/ Ngươi nhìn kìa, Trần Quang Diệu đang sang/ Rượu đã sẵn. Và... trăng đã đến”. Có lẽ, đó là “tiền đề” để làm nên một Khúc ca bi tráng, lừng lững trên sân khấu truyền thống chuyên nghiệp.
Tiếp cận thơ Văn Trọng Hùng, dễ thấy nét thơ phóng khoáng, hào sảng với thế mạnh về sự chiêm nghiệm, phản biện tạo nên nét cuốn hút riêng khiến người đọc cảm mến. Tôi tìm thấy trong thơ ông một điểm khác, ấy là bóng dáng của một thi nhân nhuốm đầy nỗi cô đơn. Dường như, càng dày những suy nghiệm, thi nhân ấy càng mênh mang trống trải: “Ngửa mặt hỏi trăm năm/ Trăm năm cười lành lạnh/ Trắng đen  chừng ảo ảnh/ Ta. Có phải ta” (Bỏ rượu).
VÂN PHI


Nhạc sĩ Đào Minh Tâm: Thiết tha giai điệu trái tim

Về hưu đã 4 năm nay, nhưng nhạc sĩ Ðào Minh Tâm vẫn bận rộn với công việc sáng tác, dàn dựng mà các cơ quan, đơn vị “đặt hàng”. Và nhiều khi, cũng chính anh tự “đặt hàng” cho mình rồi ký thác trên những khuôn nhạc dòng cảm xúc, nỗi trăn trở, tiếng lòng đầy tha thiết của mình với quê hương, cuộc sống.
Nhạc sĩ Đào Minh Tâm thuộc thế hệ những nghệ sĩ hoạt động sôi nổi sau năm 1975, sớm định hình phong cách, khẳng định tài năng của mình trong âm nhạc. Năm 1977, anh tham gia vào Đoàn ca múa nhân dân Nghĩa Bình (sau đổi tên thành Đoàn ca múa nhạc Chim Yến), là đoàn nghệ thuật có tiếng của khu vực miền Trung bấy giờ. Đào Minh Tâm tuy không được đào tạo trong môi trường nghệ thuật chính quy nào nhưng anh là cây guitar bass vững vàng của Đoàn. Có lẽ nhờ chuyên cần, ham học hỏi nên năng khiếu bẩm sinh, cái duyên sân khấu đã giúp anh không chỉ thành công trong âm nhạc mà còn lấn sang cả lĩnh vực sân khấu.
Nhạc sĩ Đào Minh Tâm (bìa phải) khi còn là thành viên của Đoàn ca múa nhạc Chim Yến.
Cùng tham gia vào Đoàn ca múa nhạc Chim Yến một thời với Đào Minh Tâm, nghệ sĩ Hoàng Việt kể: “Anh Tâm là người bình dị, miệt mài sáng tạo, được anh em nghệ sĩ rất quý mến. Anh là một nghệ sĩ đi lên và tự khẳng định bằng tài năng thật sự của chính bản thân. Nhạc sĩ Đào Minh Tâm khá đa tài, anh chơi nhạc, sáng tác ca khúc, có năng khiếu diễn xuất, viết được kịch bản và làm đạo diễn nhiều chương trình”.
Thành công ở nhiều lĩnh vực, nhưng với âm nhạc, Đào Minh Tâm mới là chính mình. Ở nơi đó, người ta thấy sự thăng hoa, sáng tạo và tâm huyết của anh một cách rõ rệt. “Anh khá thành công với các sáng tác sử dụng các chất liệu âm nhạc hát bội và dân ca, bài chòi. Trong đó có 2 ca khúc sử dụng chất liệu này khá tốt như Hát bội đêm xuân  Con gái xứ Nẫu”, nhạc sĩ Hữu Thuần chia sẻ. Hai ca khúc mà nhạc sĩ Hữu Thuần nhắc đến, đã được khẳng định khi đạt giải cao trong các kỳ Liên hoan âm nhạc toàn quốc: Hát bội đêm xuân đoạt giải xuất sắc năm 2011 và Con gái xứ Nẫu đoạt giải B năm 2017.
Bên cạnh đó, Đào Minh Tâm còn khá thành công trong lĩnh vực sáng tác các tác phẩm âm nhạc múa dân gian đương đại. Những tác phẩm ấy phần nhiều viết về Bình Định với tất cả những yêu thương nồng đượm, tiêu biểu như: Lung linh một cõi trời văn, Ngọt tình chợ nón Gò Găng, Hương dừa… Chất liệu âm nhạc của nhạc sĩ Đào Minh Tâm là yếu tố quan trọng giúp các biên đạo múa dàn dựng, phối kết âm nhạc và nghệ thuật tạo hình, tạo nên nhiều xúc cảm thăng hoa, để lại dấu ấn đậm nét trong nhiều cuộc thi, hội diễn. Điển hình như tiết mục nhạc múa Hương dừa đã được biên đạo múa Châu My dàn dựng đoạt HCV Liên hoan múa không chuyên toàn quc năm 2013.
Bìa sách Tình khúc 18 của nhạc sĩ Đào Minh Tâm.
Thưởng thức những tác phẩm âm nhạc múa của Đào Minh Tâm, ta như được nghe kể những câu chuyện về đất, về người quê hương. Có lần anh tâm sự: “Địa phương nào cũng có những nét văn hóa độc đáo riêng. Cho nên nếu nói tự hào về văn hóa Bình Định, nói muốn gìn giữ và giới thiệu được cái nét độc đáo của quê hương mình thì trước tiên phải xác định được nét đặc trưng của Bình Định là gì, rồi mới đến những bước tiếp theo. Tôi luôn nghĩ vậy và luôn học hỏi không ngừng, càng học hỏi sáng tác lại càng thu nạp thêm nhiều niềm vui bất ngờ, thú vị lắm!”.
 
Ðào Minh Tâm (SN 1955, ở Tuy Phước), là hội viên Hội Nhạc sĩ Việt Nam, hội viên Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam, Ủy viên Ban Chấp hành Hội VHNT tỉnh, Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam tại Bình Ðịnh. Năm 2003, Ðào Minh Tâm được kết nạp vào cả hai Hội chuyên ngành Trung ương: Hội Nhạc sĩ Việt Nam và Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam.
Đào Minh Tâm sáng tác khá nhiều ca khúc, nhưng sau hơn 40 năm gắn bó, anh chỉ lưu giữ lại non trăm. Với mỗi tác phẩm được viết ra, anh luôn tự hỏi rằng mình đã cố gắng hết sức chưa, mình có thể làm tốt hơn không? Dạo gần đây, anh viết nhiều và đều. Lần tìm trong ký ức, Đào Minh Tâm muốn dựng lại thời gian, không gian đã trôi vào quá vãng trên những khuôn nhạc. Mới vừa rồi, anh cho ra mắt ấn bản Tình khúc 18 (NXB Văn hóa - Văn nghệ, 2019). Tuyển nhạc này gồm 30 ca khúc được nhạc sĩ sáng tác cả nhạc và lời trong năm 2018. Tập nhạc tạo được ấn tượng bởi ngoài những giai khúc tha thiết trữ tình còn có những ca từ sáng, giàu chất thơ. Nhà phê bình âm nhạc Nguyễn Quang Long nhận xét: “30 tình khúc với nhiều cung bậc tình yêu say đắm, lãng mạn, giàu chất âm nhạc về một thời hoài niệm, nhưng nó vẫn tỏa sáng riêng biệt, không trộn lẫn, hòa tan với dòng nhạc xưa, bất hủ đã tồn tại gần thế kỷ qua của các nhạc sĩ bậc tiền bối tài hoa. Trong thế giới của Tình khúc 18, dường như nhịp điệu, tiết tấu, giai điệu cùng với ca từ đầy chất thi vị… đã quyện vào nhau một cách nhuần nhuyễn như tự bản thân nó, quy luật của trái tim đang nồng cháy yêu thương tuôn ra vậy”.
Hơn nửa đời gắn bó với nghệ thuật, vẫn từng ngày miệt mài sáng tạo, chất nghệ sĩ trong nhạc sĩ Đào Minh Tâm ngày càng được đắp bồi. Tôi lặng yên chia sẻ khi lắng nghe anh tâm sự da diết: “Trả lại tôi dòng sông tuổi thơ/ Lang thang câu hò khua mái chèo thưa/ Thương con sông dập dềnh mùa lũ/ Chở nặng phù sa bên lở bên bồi” (Trả lại tôi dòng sông tuổi thơ).
VÂN PHI

Phạm Ánh - Người giữ nếp đất, hồn làng

Phạm Ánh sống bình dị, viết lặng lẽ. Cả những người lần đầu gặp anh cũng nhận ra ngay nét chân quê, dung dị thuần nguyên dù anh về phố đã mấy chục năm. Cái nét ấy khúc xạ vào cả trong thơ của anh.
Cách đây gần 50 năm, chính xác là năm 1971, lúc 6 tuổi, Phạm Ánh bị trúng pháo mất đi chân trái ngay tại quê nhà - xã Cát Hanh, huyện Phù Cát. Chiến tranh, đã thành nỗi ám ảnh, rắc gieo bao đau thương nơi đồng quê Cát Hanh của Phạm Ánh theo năm tháng thiếu thời. Để rồi sau này, tuổi thơ khốc liệt kia được anh viết lại: “Chiếc nôi của tôi là một chiếc hầm/ Khúc à ơi lẫn vào tiếng súng/ Bên miệng hầm tôi đi chập chững/ Ngày nối ngày dần trôi”(Ký ức tuổi thơ). Anh da diết nhớ về dòng sông gắn chặt với tuổi thơ mình, dòng La Tinh; nhớ về bản quán ngay cả khi đang ở giữa quê nhà. Nét quê vì thế chảy vào thơ anh thuần hậu, chân thành: “Em về Phù Cát quê tôi/ Giếng trong tận đáy nói lời của sông/ La Tinh như một tấm lòng/ Chốn quê lặng lẽ xanh trong nỗi niềm”(Bên dòng La Tinh); và đôi khi nghe đến trĩu lòng: “Cát nặng tình người dưới biển trên non/ Như khúc ca dao tạc hình dáng mẹ/ Lấp lánh xa xôi nghĩa tình lặng lẽ/ Thắp sáng lòng người một ánh sao quê”(Phù Cát quê tôi).
Nhà thơ Phạm Ánh sinh năm 1965, quê ở xã Cát Hanh, huyện Phù Cát.
Cuối năm 2018, Phạm Ánh là một trong số 35 tác giả được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam.
Có lẽ do nhạy cảm lại cần cù chắt lọc nên khi “va” vào tứ thơ, tâm hồn Phạm Ánh khẽ khàng ngân lên thành chữ thành câu. Từ tập thơ Lối cũ anh in năm 2004 rồi sau đó là tập Hạt phù sa, năm 2009 cho đến những sáng tác gần đây in rải rác trên báo Văn nghệ, tạp chí sông Hương, Báo Bình Định… tình quê trong anh cứ đượm nồng với phên dậu, bờ tre, với đồng làng, dòng sông ký ức, với dáng mẹ thân thương...
Phạm Ánh cười hiền chậm rãi nhắc nhớ những ngày bắt đầu bén duyên với thơ. Năm 1987, khi trở thành sinh viên Đại học Đà Lạt, anh bắt đầu sáng tác và có thơ đăng trên Văn nghệ Lâm Đồng. “Ở đó, tôi gặp những người thầy đáng kính. Một trong số những thầy nhen nhóm tình yêu thơ, chia sẻ cảm xúc với tôi là thầy Phạm Quốc Ca”- anh chia sẻ.
Năm 1993, Phạm Ánh đạt giải ba (không có nhất, nhì) trong cuộc thi thơ do Hội VHNT Bình Định tổ chức với bài thơ Chiều xóm vắng. Anh bảo rằng “dân gốc rạ ngại người đời son phấn” nên cứ man mác lòng mình, trú gửi trong hoài niệm, trong câu ca dao của miền quê yêu dấu: “Buồn thui thủi trong dòng đời xuôi ngược/ Tuổi đôi mươi qua mất tự khi nào/ Chỉ còn lại những tháng ngày lặng lẽ/ Mình ru mình bằng những khúc ca dao”(Chiều xóm vắng).
 Nhà thơ Phạm Ánh với bạn bè văn nghệ sĩ.
Năm 2000, anh rời quê vào làm việc ở Quy Nhơn, tại Trung tâm dạy nghề người khuyết tật Nguyễn Nga. Tại đây, anh tìm thấy người bạn đời hiền dịu chung cảnh tật nguyền. 39 tuổi, anh lập gia đình và thơ của chàng nông dân thi sĩ ngân vang trong trẻo, tinh khôi: “Dáng em dáng lúa dịu dàng/ Long lanh đôi mắt giếng làng trong veo”(Chiều mưa) hoặc “Muộn màng cha mới có con/ Cội già mong đợi chồi non thắm cành”(Chồi non- Cho con gái Phạm Ánh Nguyệt).
Năm 2005, Phạm Ánh chuyển sang làm việc tại Hội VHNT Bình Định cho đến giờ.Ngần ấy năm ở nhưng anh cứ như là khách trọ thị thành. Mà có khi là trọ thật bởi chỗ anh gọi là nhà chỉ vỏn vẹn…12 mét vuông. “Xe của bà xã mình phải để ngoài ngõ, vì trong nhà không có chỗ”, anh chia sẻ. Phạm Ánh chân thật rằng, nhiều khi rất ngại khi bạn đến thăm nhà. Vì cái không gian chật chội bé như lỗ mũi ấy thiếu vắng chỗ ngồi. Tôi nghĩ, nếu không có tiếng cười nói ê a của cô con gái nhỏ, nếu không có những ngày gian bếp tí hon đỏ lửa từ bàn tay của người vợ hiền từ, và nếu không vin vào ấy cùng với thơ, có lẽ Phạm Ánh sẽ chông chênh, lạc lõng biết dường nào.“Lần qua phố xá thị thành/ Thêm thương vách đất mái tranh dưa cà/ Đôi khi đợi một tiếng gà/ Một mình thổn thức xưa xa nỗi niềm// Lối mòn lấm tấm chân chim/ Rạ rơm chưa cạn ưu phiền gió giông/ Khi xa là lúc rất gần/ Tôi mang dáng dấp nông dân bao đời”(Nỗi lòng).
Nếu diễn đạt khác về Phạm Ánh thật ngắn, thật súc tích mà không như ở trên, tôi sẽ chọn hai chữ “Thật Thà”. Đó là nét khắc đã ăn sâu vào máu thịt, neo riết vào từng ngóc ngách tâm hồn anh. Với Phạm Ánh, nếp đất hồn làng đã chảy sâu vào tâm thức, dù anh có đứng ở đâu, ở nơi nào thì cái chất ấy vẫn cứ dịu dàng, lặng lẽ sáng.
VÂN PHI

Những vườn mai trên mái phố...

Phố! Những dãy nhà ken kín. Mái phố lêu nghêu điệp trùng bê tông, tường gạch. Nhưng lọt thỏm đâu đó giữa lòng phố Quy Nhơn, trên những sân thượng nhà tầng, là các khu vườn nhỏ nhỏ xinh xinh. Ðặc biệt hơn, không ít trong số họ sở hữu những vườn mai vàng bonsai khiến người xem phải tấm tắc.
Những ngày cận Tết, tham quan vườn mai của họ, nhìn những búp xanh mướt mát trổ, lại thấy nao nức mong ngóng ngày con én đưa thoi… Ở phố mà, tấc đất tấc vàng, nên với hầu hết những người trót hâm mộ cây hoa này, việc đưa vườn cây cảnh bonsai lên tầng thượng là giải pháp tối ưu.
* * *
Ghé thăm vườn mai của ông Trần Minh Xuyến (đường Cần Vương, TP Quy Nhơn), tôi không khỏi ngạc nhiên bởi khu vườn hơn 30 chậu mai bonsai đang trổ búp xanh tơ trên tầng 3 của ông. Về hưu hơn 4 năm nay, dường như phần lớn thời gian của ông dành cho vườn mai này. Túc tắc chăm dưỡng mỗi ngày, niềm vui nhen lên theo từng nhánh mai trổ nụ…
Về hưu hơn 4 năm nay, phần lớn thời gian của ông Trần Minh Xuyến dành cho vườn mai này.
Vài năm trước, tầm cuối Chạp đầu Giêng ông lại đi khắp các làng mai, vườn mai tìm mua những gốc mai vừa ý, tự tay mình vào chậu, tạo dáng. Đang trong những đoạn hồi tưởng hơn 30 năm gắn bó với mai, ông chợt ngưng chuyện, chỉ một gốc mai lớn trong vườn, kể: Cách đây không lâu, trong lúc xê dịch chậu, tôi vô tình làm gãy mất một cành. Tôi đã cứu chữa cành mai ấy nhưng không sao lành lặn được. Có chơi bonsai mới chia sẻ được nỗi xót xa ấy.
Ông Xuyến cho biết, chăm mai trên tầng thượng cũng không khác như dưỡng mai ở dưới đất là mấy. Có điều, phải dày công hơn một chút, đặc biệt là để ý việc cung cấp nước cho mai. “Nhất là mùa gió nam hanh hao, mai ở trên tầng thượng tiếp xúc với nắng gió nhiều hơn nên dễ bị mất nước, khô lá, nếu không để ý thì dễ hỏng cây lắm”, ông Xuyến chia sẻ.
Có những người chơi mai và đến mùa Tết lại sang nhượng bớt để lấy chỗ tuyển “tân binh”. Nhưng cũng có người gần như không nghĩ đến chuyện bán buôn những cây mai của mình. Anh Trần Minh Hải (giới chơi mai quen gọi anh là Hiếu Veston, nhà ở đường Tăng Bạt Hổ, TP Quy Nhơn) là một ví dụ.
Anh Hiếu Veston (bìa trái) đang giới thiệu một cây mai quý với “bạn mai”.
Tại vườn mai của anh Hiếu Veston, những chậu mai đã sớm hé những bông đầu mùa. Hôm tôi đến thăm vườn mai trên sân thượng nhà, anh và một người bạn mai đang “tán” rất xôm về mai. Người khách trung niên cứ tấm tắc mãi về những gốc mai lâu năm với dáng thế độc đáo và những nụ mai đã bung ra bụ bẫm, căng đầy nhựa sống.
Anh Hiếu kể, có một gốc mai đã có người mua và gởi lại nhờ anh chăm vài tháng. Nhưng rủi thay, do anh sơ sẩy, gốc mai bị rộp một phần. Anh bèn đề nghị hoàn lại tiền và nhất định mời cho được người mua đến xem lại, nhằm tránh tiếng bán cho ai khác được giá hơn nên kiếm cớ…
Chuyện cây hoa cũng như chuyện đời, không chu đáo, cẩn thận thật khó mà theo đuổi. Dù chăm mai cả năm chỉ chơi được mấy bữa, nhưng với những người đã hâm mộ mai, họ chơi và vui quanh năm theo nhịp sinh trưởng của cây hoa, chứ không phải đợi đến lúc trổ hoa.
Ông Huỳnh Đông Dương (bìa trái) đang giới thiệu một gốc mai lâu năm với khách.
Vườn mai trên sân thượng của ông Huỳnh Đông Dương (đường Mai Xuân Thưởng), thuộc hạng khủng ở TP Quy Nhơn. Ở đó có hơn 40 chậu mai mà cây ít tuổi nhất cũng đã hơn 20 năm. Ông Dương là một tay chơi công phu, ngay trong giới chơi mai cũng không mấy người làm theo kiểu ông. Những cội lão mai của ông đều có tên riêng như: Thanh kỳ cổ mai, Kim sư huỳnh mai, Giáng long…, và mỗi cây lại có một “hồ sơ thành tích” riêng. Ông Dương say sưa nói về mai với tất cả niềm trân trọng, kể từ lúc hâm mộ bonsai, bắt tay vào với thú vui này, ông Dương chỉ chơi mai và đến giờ vẫn vậy.
Vườn mai của ông Huỳnh Đông Dương, vào tháng Chạp búp búp đã vun tròn như cựa mình trong nắng sớm, làm bừng thức cả một không gian. Hơn nửa đời người gắn bó với mai, nhưng ông vẫn khiêm nhường rằng chưa dám nói là hiểu hết về cây mai. Càng chơi mai lại càng thấy bể học riêng về mai không thôi đã mênh mông, bát ngát.
* * *
Nếu thả flycam những ngày này trên các làng hoa, vùng hoa Bình Định, sẽ thấy rực đều sắc vàng. Có thể là mai là cúc là hướng dương. Nhưng ở Quy Nhơn, nếu thấy lốm đốm điểm xuyết vàng thì nhất định là mai - những vườn mai trên tầng cao mái phố. Có lẽ chính nơi ấy, là chốn cánh én mùa xuân gõ cửa sớm hơn cả, thầm thì gọi xuân về…                    
VÂN PHI
Bài đã đăng BBĐ: 
http://www.baobinhdinh.com.vn/viewer.aspx?macm=18&macmp=18&mabb=117457

ambum ảnh

ambum ảnh

Bài đăng phổ biến

Được tạo bởi Blogger.